Lịch sử Maroc

Bài chi tiết: Lịch sử Maroc

Maroc thời Berber

Khu vực Maroc ngày nay đã có người ở từ Thời kỳ Đồ đá mới (ít nhất năm 8000 trước Công nguyên như được chứng thực bằng các dấu hiệu của văn hóa Capsia), một giai đoạn khi Maghreb còn ít khô cằn như ngày nay. Nhiều nhà lý luận cho rằng, người Amazigh, thường gọi là Berber hoặc theo nhận diện tôn giáo của họ (ví dụ như Chleuh), có lẽ đã đến đây vào khoảng cùng thời với thời kỳ bắt đầu ngành canh nông ở khu vực này. Thời xưa, Maroc đã được gọi là Mauretania, dù tên này không nên nhầm lẫn với quốc gia Mauritanie ngày nay.

La Mã và Maroc tiền La Mã

Từ thế kỷ thứ IX TCN, người Phoenicia đến định cư ở các vùng ven biển (Melilla, Tangiet, Larache). Người La Mã sáp nhập vương quốc của người Moor và thành lập vùng Đông Bắc Maroc thành tỉnh Mauritania Tingitana.

Maroc thời Trung cổ

Vào đầu thế kỷ thứ VIII, người Ả Rập chinh phục xứ sở này và truyền bá Hồi giáo cho các bộ tộc Berber. Từ năm 1064 đến năm 1269, hai dòng họ lớn của người Berber là AlmoravidAlmohad, đã thống nhất vương quốc, cai trị cả vùng Bắc Phi, vùng lãnh thổ phía Đông và phía Nam Tây Ban Nha.

Các vua của Maroc trung cổ:

Triều Idrisd:

  • Idriss I (789-791)
  • Idriss II (791-828)
  • Muhammad ibn Idris (828-836)
  • Ali ibn Idris (836-848)
  • Yahya ibn Muhammad (848-864)
  • Yahya ibn Yahya (864-874)
  • Ali ibn Umar (874-883)
  • Yahya ibn Al-Qassim (883-904)
  • Yahya ibn Umar ibn Idris (904 - 922)
  • Vua Fatimid (Ai Cập) Ubayd Allah 922-925.
  • Hassan al-tôi Hajam (925-927)

Giai đoạn thứ hai của Fatimid (Ai Cập) kéo dài 927-937: Ubayd Allah (927 - 934); Muhammad bi-Amrillah (934 - 937)

  • Al Qasim Gannum (937-948)
  • Abu l-Aish Ahmad (948-954)
  • Al-Hasan ben Kannun (954-974)

Năm 974, vua nhà Idrisd bị Đế quốc Cordoba đánh bại và thống trị gần 300 năm. Về sau, vua nhà Almoravid là Abu ibn Umar đánh tan Cordoba và lập vương triều mới.

Triều Amoravid:

  • Abu Bakr ibn Umar (c.1060-1072)
  • Yusuf ibn Tashfin (1072-1106)
  • Ali ibn Yusuf (1106-1142)
  • Tashfin ibn Ali (1142-1146)
  • Ibrahim ibn Tashfin (1146)
  • Ishaq ibn Ali (1146-1147)

Năm 1145, một tướng của Amoravid là Mu'min nổi loạn lật đổ vương triều và lập triều đại mới - triều Almohad:

  • 'Abdul-Mu'min (1145-1163)
  • Abu Yusuf Yaqub tôi (1163-1184)
  • Aby Yusuf al-Mansur Yaqub (1184-1199)
  • Muhammad một-Nasir (1199-1213)
  • Abu Yusuf Yaqub II (1213-1224)
  • Abdul-Wahid tôi (1224)
  • Abdallah al-Adil (1224-1227)
  • Yahya (1227-1235)
  • Idris I (1227-1232)
  • Abdul-Wahid II (1232-1242)
  • Ali (1242-1248)
  • Umar (1248-1266) - đóng đô ở Marrakech
  • Idris II (1266-1269)

Năm 1244, tướng al-Haqq nổi loạn lập vương triều trên, về sau đánh bại Idris II để thống trị toàn Maroc với tên vương triều Marinid:

  • Abu Yahya ibn Abd al-Haqq (1244-1258)
  • Umar (1258-1259)
  • Abu Yusuf ibn Abd Yaqub Al-Haqq (1259-1286)
  • Abu Yusuf Yaqub một-Nasr (1286-1306)
  • Abu Thabit Amir (1307-1308)
  • Abu al-Rabi Sulayman (1308-1310)
  • Abu Sa'id Uthman II (1310-1331)
  • Abu al-Hasan Ali ibn Othman (1331-1348)
  • Abu Inan Faris (1348-1358)
  • Muhammad II. như Said (1359)
  • Abu Salim Ali II. (1359-1361)
  • Abu Umar Taschufin (1361)
  • Abu Zayyan Muhammad III. (1362-1366)
  • Abu l-Fariz Abdul Aziz I. (1366-1372)
  • Abu l-Abbas Ahmad (1372-1384)
  • Musa ibn Faris (1384-1386)
  • Al-Wathiq (1386-1387)
  • Abu l-Abbas Ahmad (1387-1393)
  • Abu Faris Abdul Aziz II. (1393-1396)
  • Abdullah (1396-1399)
  • Abu Said Uthman III. (1399-1420)
  • Abdalhaqq II (1420-1465)
  • Muhammad ibn Ali Idrisi-Joutey (1465-1471) - tiếm ngôi

Năm 1472, Abu Zakariya lật đổ Joutey và lập triều Wattasid

  • Abu Zakariya Muhammad al-Saih al-Mahdi (1472-1505)
  • Abu Abdallah Muhammad I (1505-1524)
  • Abul Abbas Ahmad (1524-1545)
  • Nasir ad-Din al-Qasri (1545-1547)
  • Abul Abbas Ahmad (lần thứ hai, 1547-1549)
  • Ali Abu Hassun (1554)

Năm 1549, nhà Saadian lật đổ Wattasid, lập vương triều:

  • Mohammed tro-Sheikh (1549-1554, 1554-1557)
  • Abdallah al-Ghalib (1557-1574)
  • Abu Abdallah Mohammed II (1574-1576)
  • Abu Marwan Abd al-Malik I (1576-1578)
  • Ahmad al-Mansur (1578-1603)

Chiến tranh kế vị: 1603-1627

Cai trị Saadian chính, có trụ sở tại Marrakesh:
  • Abou Giá vé Abdallah (r. 1603-1608)
  • Zidan el Nasir (người cầu hôn từ năm 1603, r. 1608-1628)
Phe Splinter có trụ sở tại Thành phố Fes, với sức mạnh chỉ địa phương:
  • Mohammed el Sheikh esh Mamun (r. 1603-1613)
  • Abdallah II (r. 1613-1623)
  • Abu Marwan Abd al-Malik II (r. 1623-1627)

1627-1659: Saadian thống nhất:

  • Abu Marwan Abd al-Malik II (r. 1628-1631)
  • Al Walid ibn Zidan (r. 1631-1636)
  • Mohammed esh Sheikh es Seghir (r. 1636-1655)
  • Ahmad Abbas el (r. 1655-1659)

Năm 1415, Bồ Đào NhaTây Ban Nha xâm chiếm các thành phố ven biển (Ceuta, Tanger, Melilla).

Triều đại Alawite 1660–1912

Năm 1660, Mulay al-Rachid thành lập triều đại Alawite trị vì vương quốc Maroc cho đến ngày nay. Trong hai thế kỷ XVII-XVIII, đất nước bị xâu xé và phân chia do tranh giành quyền thừa kế, kinh tế suy tàn. Trước áp lực của các cường quốc châu Âu (Anh, Pháp, Tây Ban Nha). Maroc buộc phải mở cửa thông thương từ năm 1864. Dưới sự trị vì của các Quốc vương Hasan I (1873- 1894), Abd al-Aziz (1900-1908) và Mulay Hafiz (1908-1912), Maroc vẫn bảo vệ được nền độc lập nhờ sự kình địch giữa các cường quốc.

Tình trạng nợ nước ngoài dẫn đến việc Maroc bị dặt dưới quyền giám hộ của các cường quốc châu Âu theo hiệp ước Algeciras (1906). Theo hiệp ước Fès (1912), Pháp thành lập chế độ bảo hộ ở Maroc, trong khi Tây Ban Nha giành quyền kiểm soát vùng lãnh thổ phía Bắc (Rif) và vùng lãnh thổ phía Nam (Ifni).[12]

Các quốc vương Alawite (1660 - 1912):

  1. Al-Rashid: 1660 - 1672
  2. Ismail Ibn Sharif: 1672 - 1727
  3. Abu'l Abbas Ahmad: 1727 - 1728
  4. Abdalmalik: 1728 (vài tháng)
  5. Abu'l Abbas Ahmad II: 1728 - 1729
  6. Abdallah: 1729 - 1734
  7. Ali: 1734 - 1736
  8. Abdallah: 1736 (vài tháng)
  9. Muhammad II: 1736 - 1738
  10. Al-Mostadi: 1738 - 1740
  11. Abdallah: 1740 - 1741

Ảnh hưởng của châu Âu

Abdelkrim al-Khattabi, thủ lĩnh người Berber trong vùng Rif, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của PhápTây Ban Nha (1912-1926). Khattabi bị đánh bại, nhưng cuộc kháng chiến du kích trong vùng núi Atlas kéo dài đến năm 1934. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, phong trào dân tộc phát triển (đảng Istiglal, 1944; đảng Dân chủ Độc lập, 1946). Quốc vương Sidi Muhammad đòi trao trả độc lập cho Maroc. Sidi bị Pháp truất phế năm 1953 và được phục hồi năm 1955. Năm 1956, Maroc giành được độc lập. Sidi Muhammad trở thành Quốc vương Muhammad V.[13]

Maroc hiện đại

Sau khi nhà vua qua đời (1961), Thái tử Hassan II lên nối ngôi. Hassan II tiến hành dân chủ hóa đời sống chính trị trong nước một cách thận trọng sau khi đè bẹp các nhóm đối lập cấp tiến và tiến hành thực hiện chính sách ngoại giao một cách tích cực. Từ năm 1975, nhà vua thành công trong việc đạt được sự đồng thuận của nhân dân trong nước nhờ chính sách về Sahara: cuộc "Hành quân xanh" với sự tham gia của 350.000 người tình nguyện (1975) đã chiếm lại toàn bộ lãnh thổ vùng Tây Sahara nhưng cũng tạo ra cuộc xung đột với các chiến binh thuộc Mặt trận Polisario. Mặc dầu hai bên thực hiện lệnh ngừng bắn và chấp nhận cuộc trưng cầu ý dân về quyền tự quyết do Liên Hiệp QuốcTổ chức Thống nhất châu Phi đề nghị, nhưng việc giải quyết xung đột vẫn bế tắc. Năm 1988, Maroc thành lập lại quan hệ ngoại giao với Algérie.

Bị chỉ trích là chuyên chế, Quốc vương Hassan II đã cố gắng tăng cường hòa giải dân tộc: phóng thích tù nhân chính trị gỡ bỏ lệnh kiểm duyệt, thừa nhận các đảng đối lập. Việc sửa đổi hiến pháp năm 1996 nhằm hướng tới quân bình hóa giữa quyền hành phápquyền lập pháp. Năm 1998, Abd al-Rahman Yusufi được bổ nhiệm làm Thủ tướng. Năm 1999, Quốc vương Hassan II qua đời, người con trưởng lên kế vị, lấy danh hiệu là Muhammad VI.

Maroc thông qua chế độ đa đảng chính trị, với khoảng 30 đảng phái hợp pháp. Đảng đối lập trước đây gồm hai đảng kế tục Phong trào độc lập dân tộc Maroc là đảng Istiglal (PI) và Liên minh các lực lượng nhân dân xã hội chủ nghĩa (USFP). Từ năm 1998 đến 2002, đảng đối lập đứng đầu Liên minh Chính phủ, còn gọi là Chính phủ đan xen. Sau cuộc bầu cử tháng 9 năm 2002, một liên minh mới được hình thành bao gồm các đảng USFP, PI, RNI (đảng trung hữu), đảng MP và đảng MNP (các đảng của người Berber), đứng đầu là Thủ tướng Driss Jettou, người không thuộc đảng phái nào. Theo công luận, Thủ tướng Jettou có một hình ảnh tốt (liêm khiết, có năng lực) và đã nỗ lực phát động những cuộc cải cách căn bản (bảo hiểm bệnh tật bắt buộc, lương hưu, đầu tư cải thiện cơ cấu kinh tế). Các đảng chính của phe đối lập là PJD (Đảng Hồi giáo), UC, PND (đảng cánh hữu) và GSU (đảng cánh tả cấp tiến). Cuộc bầu cử tối sẽ diễn ra vào tháng 9 năm 2007.

Từ vài năm nay, Maroc thực hiện mục tiêu thiết lập một chế độ dân chủ hơn và xây dựng một Nhà nước pháp quyền (ban hành Bộ luật gia đình mới, Luật về các đảng phái chính trị, Luật chống tra tấn…).

Tình hình Maroc hiện nay nhìn chung ổn định. Tuy nhiên vấn đề Tây Sahara vẫn đang là một điểm nóng chính trị của Maroc. Giải pháp do Liên Hiệp Quốc đưa ra từ hơn 10 năm nay nhằm tổ chức trưng cầu dân ý để nhân dân Tây Sahara tự quyết định tương lai của mình vẫn không thực hiện được. Trong khi đó chính quyền ở đây đã tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy, tuy chưa được Liên Hiệp Quốc và nhiều nước trên thế giới công nhận.[14]